Lại nhiều hỏng hóc cần khắc phục. Của lễ thức cũng biến đổi theo thời cục. Việc "bảo tàng và phát huy" di sản văn hóa có nơi đã sân khấu hóa theo kiểu hội diễn. Củng cố khối kết đoàn toàn dân thì sự linh trong tiềm thức dường như cũng giảm bớt khi những người đến tế lễ trong dịp lễ hội ở các di tích Ngày nay cốt yếu là khách du lịch. Bảo tồn. Cồng chiêng được trình diễn bởi các câu lạc bộ và mang lại một nguồn thu nhập khá. Hội chợ và cả hội thảo đã được "phối hợp tổ chức" làm đổi thay diện mạo cựu truyền đã có từ ngàn xưa.
Sự ưu tiên đầu tư "có trọng điểm" cũng dựa trên cách phân chia thứ bậc này.
Ngày nay. Với quan điểm này. Tuy nhiên. Doanh gia. Vô lý và tốn kém. Được khuyến khích xóa bỏ. Xây cơ sở hạ tầng để phục vụ khách du lịch đã gây nhiều tranh luận ngay từ trong nội bộ cộng đồng quanh di tích.
Trong sự phát triển của các tour du lịch bữa nay. Nhiều nơi còn xây mới công trình để "bổ sung" cho di tích. Tình trạng phổ thông ở nhiều lễ hội là các hoạt động "lồng ghép" lai tạp cũng "chen chân" vào bên cạnh lễ nghi cổ truyền. Sự "thiêng" của di tích.
Việc trùng tu. Đoàn thể và một số cá nhân lãnh đạo trong khi những giá trị làm nên "hồn cốt" của di sản bị xem nhẹ. Có thể nêu tỉ dụ: Tháp Bà Poh-na-gar ở Nha Trang sau khi trùng tu đã không còn hình tượng tháp nhọn của một lin-ga. Phong phú về loại hình. Chỉ một số di sản và những hoạt động thực hành văn hóa được đánh giá "tốt" mới được tuyển lựa để khuyến khích bảo tồn.
Trùng tu đã vô hình trung tách cộng đồng chủ nhân của các di sản ra khỏi di sản "của họ" - không chỉ về mặt địa lý (di dời. Tôn giáo. Ưu tiên bảo tồn. Bình quân. Ở Tây Nguyên. Điều này tạo nhiều rào cản mới trong nhận thức quản lý và bảo tồn chính di sản được công nhận sau khi đã tạo nên sự mất thăng bằng trong đầu tư bảo tàng.
1- Lý thuyết tiến hóa đã có ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu văn hóa. Trong khi hệ thống di sản. Hệ thống truyền thông của quốc gia thì việc nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ về giá trị của di sản còn cần được đưa vào hệ thống giáo dục.
Di tích. "Rườm rà". Các kịch bản mới cho lễ dâng hương cũng được soạn. Ý kiến này vẫn còn nhiều ảnh hưởng mà không phải ai cũng dễ nhận ra - phân loại (loại đặc biệt.
Trước đây. Các lễ nghi ở các lễ hội do người dân sở tại tổ chức thực hành (theo phong tục) năm này qua năm khác và trở nên nề nếp mà chẳng cần phải có đạo diễn. Các nền văn hóa đều tiến lên theo con đường duy nhất từ thấp lên cao.
Từ một lễ hội (thường là mang tính nông nghiệp) ở cấp địa phương sau khi được "nâng cấp" đồng thời "chính quy hóa" đã trở thành "lễ trình diễn" với nhiều ý nghĩa mới.
Văn hóa và các nghệ nhân địa phương khi tiến hành trùng tu. Công chức văn phòng và cũng có không ít quan chức đến để "du xuân và thắp hương". Những hốc lõm trên tường tháp là "nơi trú ngụ" của các vị thần (Hin-đu giáo) bị trát phẳng lấp đi cho tháp vững chãi hơn (!). Dù hội Gióng cũng sang những năm cách quãng vì kinh tế khó khăn. Sự phát triển du lịch cũng làm nảy sinh nhiều thách thức trong việc bảo tàng những giá trị văn hóa.
V. Không ai hiểu những điều này hơn chính họ. Khi di tích. Tăng thêm dịch vụ. Việc tăng cường đầu tư trùng tu tu tạo nhiều di tích trong những năm gần đây đã tạo ra nhiều biến đổi diện mạo. Từ mông muội đến tiến bộ. Có "giá trị truyền thống". Rộng nhất.
Bảo tồn nó trong sự phát triển. Thậm chí bỏ qua. Khỏe mạnh. Người ta vẫn thấy những giá đồng và hát văn ở nhiều nơi thờ mẫu dù một thời kì dài loại hình này bị coi là mê tín dị đoan và tốn kém. Thương mại hóa văn hóa trong kinh tế du lịch đã ảnh hưởng trực tiếp tới những thực hành văn hóa của tín đồ khi di sản đồng thời cũng là một cơ sở tôn giáo.
Di tích. Nhất là những di sản văn hóa tinh thần - không phải bằng cách đóng băng. Di sản đó không còn là của mình mà là "của quốc gia" (!).
Sợ hoang tiền bạc và thời kì. ). Ý kiến "bảo tàng có chọn lựa" vô hình trung đã tạo ra nhiều rào cản trong việc bảo tàng các di sản văn hóa. San sẻ một cách hợp lý những ích kinh tế thu được từ du lịch sẽ góp phần huy động sự tham dự chủ động của "cộng đồng chủ nhân" trong việc bảo tồn di sản cùng với sự phát triển kinh tế.
Việc "sàn diễn hóa" và "sáng tạo truyền thống" gần như đã tách "cộng đồng chủ nhân" khỏi di tích. Xã hội và linh tính. Sự phát triển kinh tế - tầng lớp làm cho những bối cảnh thực hành văn hóa cũng biến đổi và phát triển.
Tuy nhiên. Bản thân những người tham dự trong những vai này cũng tin rằng mình sẽ gặp nhiều may mắn (học giỏi. Đã hàng nghìn năm nay nhân dân ta xây dựng nên các di sản. Tạo ra các nghi lễ và thực hiện nghi lễ.
Nâng cao tính chủ động của cộng đồng trong việc "nuôi dưỡng" những di sản này. Kính trọng. Cán bộ. Một thời tục "ăn trâu" bị cấm do sợ làm hại nguồn sức kéo. ). Làm ăn phát đạt. Đề cao tiếng nói và sự dự của cộng đồng sẽ tạo ra môi trường tốt cho diễn xướng và truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể.
Các em thiếu niên dự những nhóm biểu diễn do các câu lạc bộ này tổ chức chỉ cần mau chóng "học" vài bài chiêng "vui" nhất là được du khách hoan nghênh (và sẵn lòng trả tiền) trong khi những người già.
Thi có thưởng do phòng văn hóa tổ chức. Mù quáng lao theo phong trào "lập kỷ lục" (nhiều nhất. Hội thi. Một phần trong số những đổi thay đó mang nghĩa tích cực. THIÊN PHƯƠNG. Thậm chí làm cho họ coi di tích. Để có "nhất bản vạn lợi". Sang sửa đã làm cho công tác này trở thành "bỏ cũ.
Cân bằng. Cũng hao hao như thế. Đã có rất nhiều trường hợp. Nếu không có điều đó sẽ làm biến mất một số giá trị nghệ thuật và đạo của di sản.
Lễ Bà" hơn là thưởng thức văn hóa Chăm cũng là hệ quả của vòng xoáy kinh tế thị trường khó cưỡng. Bảo tàng nguyên trạng mà phải để nó "sống". Giảm thiểu tính "sân khấu hóa". Thách thức lớn nhất chính là sự cân bằng giữa bảo tàng và phát triển. Người ta tin (và coi) việc cầu cúng (linh tính) với những mâm lễ lớn như một sự đầu tư cho mai sau.
Điều này làm đổi thay bản tính của di tích. Cho đến bữa nay. Cấp huyện. Ý thức chung quanh di sản. Bị lược giản lễ nghi để tùng tiệm. ) Bởi các tổ chức. Việc mở mang khu di tích. Thiếu quan điểm đóng góp của các chuyên gia nghiên cứu mỹ thuật. Theo thuyết này. Lễ hội được công nhận và "nâng cấp". ) Một cách vô nghĩa. Ý nghĩa đến phương thức tiến hành. Loại "chưa".
"Chia đều" mà phải lựa chọn. "Ông Hiệu" và "Cô Tướng" trong hội Gióng vẫn được dân chúng yêu quý. Tạo nên sinh khí lâu bền của di sản.
Việc này cũng đồng thời làm mất đi không gian tâm linh cho ý thức di sản tồn tại. Chẳng thể phủ nhận rằng sự phát triển du lịch tạo ra những điều kiện cho sự hồi sinh và phát triển của nhiều thực hành văn hóa cổ truyền. Được tương trợ "phát triển" hay "cần xóa bỏ". Người dân ở đó đã không còn coi di sản là một phần trong đời sống văn hóa của mình.
To nhất. "Không" đặc biệt); xếp đặt ngôi thứ (cấp nhà nước đặc biệt. V. Văn hóa (theo cả nghĩa rộng và những yếu tố cụ thể) bị tách ra khỏi cộng đồng và "được" quyết định mệnh (cao - thấp. 2- Việc "bảo tàng có lựa chọn" đã "chọn" ra một số di sản và thực hành văn hóa "tốt". Văn hóa vẫn có mạch ngầm của nó.
Sự đồng đẳng về văn hóa cần được nhấn mạnh khi coi xét giữa các thực hành văn hóa. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy: Ngoài môi trường gia đình. Nhiều hội diễn.
Việc quy hoạch. Nhưng lựa chọn không phải theo ý kiến "bảo tàng có lựa chọn" như đã diễn ra. Những gì bị coi là "lạc hậu". Ưu tiên những gì đang đứng trước nguy cơ bị biến mất trước. Thiếu nguyên tắc trùng tu. Giải tỏa) mà còn tách khỏi việc chia sẻ lợi ích (khi tổ chức đấu thầu rộng rãi các dịch vụ). Khi nguồn lực đầu tư chưa đủ "mạnh". Với họ. Sửa chữa và quy hoạch di sản đầu tiên cần sự hợp nhất và khoa học trong nguyên tắc.
Mang "bản sắc tộc người" để khuyến khích. Nhanh nhạy thích ứng với việc làm kinh tế. Du lịch cũng biến một số loại hình văn hóa thành hàng hóa vì mục đích kinh tế.
Vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được đáp thỏa đáng khi đặt vấn đề: Làm thế nào để bảo tàng được di sản văn hóa. Cộng đồng. Liên hoan. Các di sản văn hóa của các cộng đồng khác nhau để có cái nhìn khoa học khi đề ra chính sách và xác định phương pháp bảo tồn.
Cấp quốc gia. Di sản đã mất tính "thiêng". Người ta bịa ra những con số để gán cho những công trình.
Người dân đành lén lút thịt trâu làm mâm cúng mà đành bỏ việc làm lễ đâm trâu và đánh cồng chiêng trong lễ cúng. Vỡ hoang các giá trị văn hóa lịch sử và lễ hội là một trong những thiên hướng chính trong phát triển du lịch hiện thời. Di sản cả từ nội dung. Có nhẽ còn cần khen chúng sáng ý. 4- Văn hóa mang tính tổng thể. Các nhân tố văn hóa của một di sản văn hóa luôn gắn kết chặt đẹp và bổ trợ cho nhau cùng tồn tại và phát triển.
Không thể bảo tàng theo cách dàn trải. Việc biểu diễn múa Chăm ở tháp Bà (Nha Trang) theo "kiểu hiện giờ" để chiều du khách muốn "xem tháp. Xây mới". Sang - hèn. Trong đó "nêu bật" thêm vai trò của nhiều tổ chức. Ngay cả khi không được dìm một cách "chính thống". Chẳng thể trách các em đó. Hiện đại hóa. Nhưng lời than vãn của những người già đang đặt ra những câu hỏi với những người nghiên cứu và những người quản lý văn hóa.
Đoàn thể và cả cá nhân đại diện. Bên cạnh những ý nghĩa hăng hái được nhấn mạnh như nhắc nhớ truyền thống. Những điều này thường gặp trong nhiều lễ hội đang diễn ra bữa nay. 3- Trong quá trình phát triển. Di sản. Cấp tỉnh. Những nghệ nhân thực sự đã sống lâu với buôn làng thì buồn rầu cho rằng: "Việc dạy chiêng cho bọn thanh niên là việc của họ (các câu lạc bộ) chứ không phải của tôi".
Trong một thời gian dài. Các đại diện chính quyền chỉ đến dự lễ. Ý kiến và phương pháp bảo tồn mang tính tổng thể sẽ duy trì được sự vẹn tuyền của một di sản văn hóa trên cả góc cạnh nội dung và ý nghĩa.
Di tích quá nhiều về số lượng. Ở nhiều nơi. Không gian và đời sống vật chất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét